Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

nhiều ngành khó tìm việc nhưng lắm người theo

một thực tế đang diễn ra là những bạn teen lúc định hướng tương lai thường chọn những ngành "hot", mang thể kiếm được nhiều tiền mà chẳng chú ý tới thực tiễn nhu cầu của thị trường lao động. Để rồi kết quả là ra trường thì thất nghiệp.

phổ biến ngành khó chọn việc…

Ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc thường trực Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và Thị trường lao động TPHCM (Falmi) nhận định: "Thị trường lao động thành phố HCM tiếp tục sở hữu sự chênh lệnh cung – cầu. Trong đấy, ngành Tài chính – Ngân hàng với biểu hiện chênh lệch rõ nét nhất".

Đây là ngành nghề sở hữu số lượng người chọn việc khiến cho luôn luôn vượt so sở hữu nhu cầu tuyển dụng của những doanh nghiệp trong các năm trở lại đây.

Theo ông Tuấn, năm 2012 là năm đa dạng ngân hàng thực hiện tái cơ cấu bộ máy nhân sự, hàng loạt thay đổi nhân sự không chỉ ở vị trí tốt mà còn ở những cấp trung và phải chăng, rộng rãi ngân hàng cắt giảm nhân sự. do đó, chọn việc trong ngành này những năm vừa qua là một thử thách.

Nhiều ngành khó tìm việc nhưng lắm người theo

rộng rãi ngành khó tìm việc nhưng lắm người theo

Ngành thiết bị 2 là ngành Kế toán – Kiểm toán. Ông Tuấn cho biết: "Ngành nghề này có đa dạng biến động về nhân sự, đặc biệt là nhân sự với chuyên môn giỏi, tuy là nhóm ngành nghề liên tục được tuyển dụng và sở hữu nhu cầu, nhưng nhân lực chọn việc trong nhóm ngành nghề này luôn cao hơn so có nhu cầu tuyển dụng ở toàn bộ những trình độ".

một ngành khác không kém cam go trong thời điểm ngày nay là ngành thiết kế – Kiến trúc. Ông Tuấn nhận định: "Cùng mang sự cạnh tranh của nền kinh tế, thị trường bất động sản cũng không mấy sáng sủa, hàng loạt doanh nghiệp trong ngành kiến trúc – thiết kế tạm ngưng hoặc ngưng hoạt động, đặc trưng các công ty vừa và nhỏ. do vậy, trong năm 2012 nhu cầu tuyển dụng giảm sắp 50% so năm 2011, tỷ lệ người lao động trong ngành Kiến trúc – làm thất nghiệp cũng hơi cao. Số chỗ khiến cho việc trống chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu tìm việc làm ở những trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học".

Nhưng vẫn lắm người theo

Ông Nguyễn Minh Hiếu, Trưởng bộ phận nhân lực Chonviec cho biết: "Trong hệ thống hồ sơ ứng viên chọn việc của chúng tôi, ngành kế toán chiếm tỷ lệ cực kỳ cao nhưng số chọn được việc rất tốt. có người tháng nào cũng nộp hồ sơ mới mà mãi 2 năm sau mới chọn được việc".

Con số chính thức mà Falmi đưa ra là 25% tổng số nhu cầu tìm việc làm cho của người lao động trên địa bàn TPHCM năm 2012 là người học ngành Kế toán – Kiểm toán. Tỷ lệ người chọn việc trong ngành Tài chính – Ngân hàng cũng siêu cao.
Thế nhưng, nhu cầu các năm mới đây và 3 năm đến của cả nhóm ngành Tài chính – Ngân hàng – Kế toán – Kiểm toán chỉ chiếm tầm 6% tổng số nhu cầu lao động trên địa bàn TPHCM. Điều đó cho thấy sự cạnh tranh khốc liệt cho 1 suất việc làm cho trong nhóm ngành này. Nó cũng cho thấy thị trường đang dư thừa nhân lực trong ngành này.

một thực tế cạnh tranh khác nữa là dù nhóm ngành này hiện dư thừa lao động nhưng lại với nhiều người theo học. Theo khảo sát nhu cầu học nghề của Falmi đối mang học sinh những trường THPT trên địa bàn TPHCM năm qua thì tất cả các em lại thích học ngành Tài chính – Ngân hàng (chiếm hơn 33,5% tổng số chiếc khảo sát). ví như xu thế này ko sở hữu sự thay đổi, chênh lệch cung – cầu sẽ ngày càng tăng cao và người học nghề này sẽ càng khó tìm việc.

Ông Tuấn cho rằng: "Việc "thừa – thiếu, thiếu – thừa" giữa những ngành, nghề vẫn luôn hiện diện siêu rõ trên thị trường lao động. nên thống kê khả năng đáp ứng của những lĩnh vực, cân đối thừa, thiếu như thế nào. Đây chính là thông tin quan trọng giúp những cơ sở giáo dục rà soát lại giai đoạn cung cấp lao động".

Ông còn nhấn mạnh: "Hơn ai hết, chính người lao động, người tiêu dùng lao động cần biết thông tin vô cùng quan trọng này. nhiều chuyên gia quản lý giáo dục từng sở hữu ý kiến chỉ tiêu ngành đào tạo của trường ĐH, CĐ nên dựa vào nhu cầu lao động. Cơ quan quản lý vĩ mô liên bộ, liên ngành tăng cường các cuộc thăm dò khảo sát, dự báo xu hướng biến động về nhu cầu nhân lực của từng lĩnh vực ngành nghề và công bố phổ biến để nhà trường, thí sinh và xã hội đều biết các thông tin này. Như thế sẽ góp phần điều chỉnh sự mất cân đối cung – cầu lao động".

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More